Ngôi chùa là niềm tin của bà con Khmer
Theo nhà văn Thạch Sene, người Khmer theo Phật giáo Tiểu thừa nên họ rất sùng bái, trọng vọng ngôi chùa và các tu sĩ trong chùa: “Ngôi chùa là điểm tựa, là niềm tin của tất cả mọi người Khmer, dù nam hay nữ, già hay trẻ đều muốn đến chùa để thắp hương cầu phước cho bản thân và những người thân. Bởi họ quan niệm cuộc sống trần gian là tạm bợ, phía bên kia mới là cõi Niết bàn và ngôi chùa chính là trung gian, sự gắn kết nối liền hai phía”.
Tác giả cho rằng, dù cuộc sống còn khó khăn, bà con vẫn tự nguyện đóng góp để xây dựng ngôi chùa của phum sóc mình thật đẹp, khang trang, lộng lẫy vì theo họ đó là khoản ước đảm bảo hạnh phúc cho cuộc sống hiện tại và ở cõi vĩnh hằng.
Nhà văn mô tả: “Khi có dịp đến thăm hoặc đi ngang qua vùng có đông đồng bào Khmer sinh sống, đặc điểm nổi bật để ta nhận biết, đó là mái chùa. Mái chùa cao vút, uy nghi, lộng lẫy nằm ẩn hiện trong khu vườn cây sao, cây dầu, cây thốt nốt… Với quan niệm sống “Ðời là đạo, đạo là đời”, từ ngàn đời nay, ngôi chùa đã trở thành chỗ dựa tinh thần của người Khmer, là không gian yên tĩnh, thiêng liêng nhất của đồng bào trong phum sóc”.
Tác giả khẳng định, ngôi chùa Khmer gắn liền với các phong tục, tập quán, lễ hội truyền thống, các hình thức nghệ thuật điêu khắc, hội họa, âm nhạc, ca múa, sân khấu dân gian… góp phần không nhỏ làm phong phú thêm văn hóa Nam Bộ và văn hóa dân tộc nói chung.
Từ những khái quát trên, nhà văn Thạch Sene đi sâu giới thiệu, mô tả, phân tích ý nghĩa của “Kiến trúc chùa Khmer”, “Chùa và tín ngưỡng thờ cúng”, “Chùa - học hành”, “Chùa - giao lưu văn hóa”, “Nước trong tín ngưỡng người Khmer”.
Ví dụ, ở trang 16, tác giả viết: “Khác với Phật giáo Ðại thừa thờ nhiều Phật và các vị Bồ tát khác nhau, Phật giáo Tiểu thừa chỉ thờ duy nhất Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni ở chánh điện. Vì vậy, trong chánh điện của chùa Khmer bài trí khá đơn giản. Ở vị trí chính yếu là bệ thờ tượng phật Thích Ca Mâu Ni”. Hoặc ở trang 41: “Người Khmer còn có câu “Mất chữ, mất gốc thì mất dân tộc; tôn giáo tiêu tan thì con người phải chết”. Câu nói cho thấy tinh thần, ý thức giữ gìn tiếng nói của dân tộc. Do vậy, bên cạnh học tiếng phổ thông, con em dân tộc Khmer còn phải vào chùa học chữ Khmer”.
Nhiều phong tục, tập quán, lễ hội đặc sắc
Ở chương này, tác giả giúp người đọc thưởng ngoạn 17 lễ và tục khác nhau của bà con Khmer: Tục cưới hỏi và cắt hoa cau, Lễ cúng Neak Ta và Lễ hội Thala, Lễ đắp núi cát, Lễ cúng trăng (Ok-Om-Bok), Lễ tạ ơn, Tết mừng năm mới (Chôl Chnăm Thmây), Tín ngưỡng thờ thần Neak Ta, Lễ rước Sâng Kran, Lễ kiết giới, Lễ tang, Lễ hạ cốt, Lễ xuống đồng, Lễ nhập hạ - Lễ xuất hạ, Lễ ngàn núi, Lễ xúc hồn, Lễ cúng dừa, Lễ dâng y Kathian.
Xin trích về Lễ ngàn núi (Bean Phnom Ponn): “Ðây là lễ làm phước với mục đích xin lỗi các thú vật tha lỗi cho con người. Theo quan niệm dân gian, người Khmer cho rằng đối với mọi sinh vật hiện hữu, họ đều có lỗi vì đã đánh, đuổi, bắt chúng để ăn thịt, bảo vệ mùa màng, bảo vệ sức khỏe. Họ lo sợ sau này khi chết đi, những con thú này sẽ bám lấy họ để trả thù và linh hồn họ phải xuống mấy tầng địa ngục. Do đó, hằng năm, bà con trong phum sóc hùn tiền lại với nhau để tổ chức lễ Bean Phnom Ponn… Lễ kéo dài 2-3 ngày dưới sự hướng dẫn của A-cha và các sư sãi. Trước hết, mọi người chọn một bãi đất trống cất tạm nhà hội để làm lễ. Trước nhà hội là một khoảng sân lớn, nơi đó được dựng tạm bàn thờ có tượng Phật, xung quanh đắp những núi cát, mỗi núi cách nhau 1m. Trên núi có cắm cây hoặc tre làm hàng rào. Người Khmer gọi đó là “Núi ngàn”. Họ tin rằng những hạt cát đắp núi sẽ giải thoát được một kẻ có tội nơi trần thế. Với ý nghĩa đó, họ hăng say đắp núi cát mong Ðức Phật ban phước lành cho mọi người”.
Chương 3, tác giả giới thiệu các loại hình văn hóa nghệ thuật của bà con Khmer, gồm: Nghệ thuật sân khấu và kịch múa dân gian, Văn hóa dân gian Khmer, Âm nhạc, Văn hóa gia đình, Trang phục, Văn hóa ẩm thực.
Ðặc biệt, bài mở đầu chương này, gây tò mò: “Vì sao người Khmer làm ghe kiểu rắn?”. Theo tác giả, người Khmer Nam Bộ quen sống vùng sông nước nên họ có nhiều loại phương tiện để đi trên sông nước như thuyền Xa chuông, thuyền Póc chai, thuyền Xom pâu và đặc biệt là chiếc ghe Ngo hình thù giống con rắn mà người Khmer thường dùng để đua trong các lễ hội.
Người xưa kể, ghe Ngo đã có ở đồng bằng này từ 700-800 năm trước. Một bài hát dân gian Khmer đã nói về nguồn gốc chiếc ghe Ngo: “Ngày xưa đến ở nơi đây / Rừng đầy thú dữ, rắn bò thi nhau / Ði lại trên chiếc thuyền sao / Con thuyền độc mộc dềnh dàng
trên sông”.
Tác giả kể: “Hình ảnh con rắn trườn trên mặt nước phản ánh giống chiếc ghe Ngo, bởi chiếc ghe Ngo tạo dáng giống như con rắn thật. Ngày xưa dân Khmer phải lên tận Krachierk ở Campuchia để tìm những cây sao thật to về đóng ghe Ngo. Việc đi tìm cây sao về đóng ghe Ngo thời đó cũng lắm gian nan, vất vả, rừng đầy thú dữ, sông lắm cá sấu, mỗi lần đi phải mất 5-7 người do cọp bắt, sấu ăn. Ðể dọa thú dữ, người Khmer tạo dáng chiếc ghe Ngo theo hình tượng rắn bò”. Trong chiến tranh, ghe Ngo được dùng làm phương tiện chiến đấu, tiếp tế lương thực. Thời bình ghe Ngo dùng để giúp vui, giải trí và để biểu dương sức mạnh của dân tộc, nhất là vào những ngày lễ Tết”.
Ở phần phụ lục, công trình này giới thiệu ba nơi lưu giữ giá trị văn hóa của đồng bào Khmer Nam Bộ. Ðó là Bảo tàng Văn hóa dân tộc Khmer tỉnh Trà Vinh, Làng Văn hóa - Du lịch Khmer tỉnh Trà Vinh và Bảo tàng Văn hóa Khmer Sóc Trăng. Du khách gần xa, ngoài tham quan chùa, tham gia lễ hội, khi đến với những địa chỉ này, sẽ có dịp suy tư, chiêm nghiệm tiếp về những nét đẹp văn hóa độc đáo của bà con Khmer.
Cuốn sách này đã góp phần khắc họa đậm đà hơn câu chuyện dân tộc Khmer Nam Bộ trong cộng đồng 54 dân tộc Việt Nam, đang sinh sống chủ yếu ở Trà Vinh, Vĩnh Long, Sóc Trăng, An Giang, Kiên Giang, Bạc Liêu, Cà Mau, Cần Thơ… Ðể kết thúc, xin chia sẻ nhận xét của Chủ tịch Ðam Books, đơn vị liên kết xuất bản tác phẩm này, ông Nguyễn Bá Nha: “Cuốn sách “Chùa và những phong tục tập quán của người Khmer Nam Bộ” của tác giả Thạch Sene là một tác phẩm văn học nhưng có hàm lượng khoa học và giá trị văn hóa dân gian”.
Nguồn: Báo Cần Thơ
Tác giả: Huỳnh Kim