Hàng năm, như một lời ước hẹn với thiên nhiên, cứ vào khoảng tháng 7 đến tháng 10 âm lịch (tức tháng 8 đến tháng 11 dương lịch), con nước từ thượng nguồn sông Mekong lại đổ về Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL). Đây là lúc những cánh đồng xanh mát tại các tỉnh đầu nguồn miền Tây được thay thế bởi cảnh tượng mênh mông sóng nước. Từ bao đời nay, mùa nước nổi là điều thân thuộc với bà con miền Tây Nam Bộ. Nước về không chỉ mang phù sa, rửa mặn cho những cánh đồng mà còn mang theo nhiều món quà thiên nhiên ban tặng, đó là nguồn thủy sản dồi dào. Với người dân nơi đây, nước về là mừng, là thời điểm để họ thay đổi phương thức canh tác và mưu sinh.
Quyển sách “Mùa nước nổi trong đời sống văn hoá Đồng bằng sông Cửu Long” do Nguyễn Hữu Hiếu biên soạn, Nhà xuất bản Văn hoá - Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành năm 2020 sẽ giới thiệu đến bạn đọc vai trò, tác động, ảnh hưởng của mùa nước nổi trong đời sống vật chất và tinh thần của cư dân ĐBSCL. Sách có độ dày 219 trang, được bố cục 04 chương:
Chương 01 khái quát mấy nét về mùa nước nổi ở ĐBSCL như khái niệm “mùa nước nổi”; điều kiện tự nhiên hình thành mùa nước nổi; phân vùng ngập lụt ở ĐBSCL; đặc điểm mùa nước nổi ở ĐBSCL. Theo quyển sách, ĐBSCL là vùng sông nước với mạng lưới sông rạch chằng chịt, có hơn 4.000 sông rạch với chiều dài khoảng 54.000 km và đặc biệt hằng năm với mùa nước nổi (còn gọi là mùa nước ngập hay nước lên, nước lụt) kéo dài từ 02 đến 04 tháng tùy theo vùng cao hay vùng thấp, cùng hiện tượng nước lớn nước ròng hằng ngày. Nước đến chậm, ở lại lâu, nhưng thường không quá “hung dữ”, nên người dân địa phương gọi đó là “mùa nước nổi”; khi nhìn xa, trông như là biển. Căn cứ theo thời gian và độ ngập lụt, có thể phân ĐBSCL làm 04 vùng chính: Vùng ngập lâu và ngập rất sâu, vùng ngập lâu và ngập sâu trung bình, vùng ngập lâu nhưng ngập cạn, vùng ngập không đáng kể. Có 02 vùng ngập sâu nhất là Tứ giác Long Xuyên (với 04 góc: Long Xuyên, Châu Đốc, Hà Tiên, Rạch Giá) và Đồng Tháp Mười (thuộc 03 tỉnh Đồng Tháp, Tiền Giang và Long An cũ). Đặc điểm của mùa nước nổi ở ĐBSCL là có tính chu kỳ, nước lên và xuống từ từ, mang lại nhiều lợi hơn hại cho cư dân địa phương.
Chương 02 giới thiệu về tổ chức không gian và nơi cư trú, việc ăn uống trong mùa nước nổi. Tùy theo nơi cư trú thuộc khu vực nào trong mùa nước, dân địa phương có cách ứng phó với mùa nước. Đối với vùng ngập lâu và rất sâu, trước khi nước về, người dân địa phương sẽ lo thu hoạch các ao mương cá, cây trái xung quanh nhà; nâng cao, cơi nới các công trình phụ (chồng trâu bò, gà vịt, nơi chứa nông cụ,…), còn nhà cửa thì vốn đã là nhà sàn cao nên không phải quan tâm, cứ để nước chay thông thoáng dưới sàn nhà. Vùng ngập ít hơn thì phải bố trí nơi tát nước, đắp đê bao,… Về ăn uống, tỷ lệ cơm ít đi, cá – rau – thịt tăng lên và đa dạng hơn, đặc biệt là món mắm kho, bánh xèo ăn kèm các loại rau mọc từ nước (bông súng, ngó sen, điên điển, kèo nèo, rau ngổ,…).
Chương 03 trình bày các hoạt động kinh tế, đi lại vận chuyển và chiến đấu bảo vệ Tổ quốc trong mùa nước nổi. Theo đó, việc đi lại và vận chuyển bằng đường thủy là chủ yếu. Hầu hết nhà nào cũng có trang bị xuồng, ghe lớn nhỏ tùy theo yêu cầu công việc. Về kinh tế, hoạt động của mạng lưới ghe thương hồ, chợ nổi, chợ trên bờ,… trở nên nhộn nhịp hơn, đa dạng với các sản phẩm do mùa nước mang về: từ thủy sản, động vật hoang đến bông sen, bông súng, bông điên điển,… Trong công cuộc chiến đấu bảo vệ vùng đất phương Nam của Tổ quốc, thể hiện rất phong phú, đa dạng việc vận dụng tri thức dân gian về sông nước tích lũy trong sinh hoạt đưa vào chiến đấu: chọn vùng sình lầy Đồng Tháp Mười, U Minh… với rừng tràm, rừng lá dừa nước (đám lá tối trời) làm căn cứ; vận dụng quy luật nước lớn, nước ròng, độ cao của mùa nước lên, kỹ năng chèo chống, bơi lặn đưa vào chiến đấu diệt giặc.
Chương 04 là những ảnh hưởng của mùa nước nổi trong đời sống văn hóa tinh thần. Trong khoảng thời gian ngắn này không có phong tục nào riêng, bên cạnh các lễ tục của miền sông nước, như: thờ Phật Quan thế âm bồ tát, thờ cúng Bà Thủy, thờ cúng Bà - Cậu, cúng Hà Bá, cúng tống ôn tống gió, đặc biệt là tục thờ cúng Đại càn Quốc gia Nam hải ở vùng Đồng Tháp Mười và một số làng xã khác chuyên nghề khai thác cá, sau mùa nước rút. Riêng vùng sâu Đồng Tháp Mười và vùng Tứ giác Long Xuyên cá biệt trong những năm nước ngập sâu và kéo dài, xuất hiện hiện tượng chôn cất người chết trong nước, vì không còn nơi cao ráo để an táng. Theo thời gian, với sự tiến bộ của khoa học - kỹ thuật, cũng như sự phát triển của kinh tế xã hội, thì một số hoạt động trong mùa nước nổi đã không còn. Dẫu vậy, “mùa nước nổi” vẫn luôn xuất hiện dưới nhiều hình thức khác nhau trong trí thức dân gian, trong phương ngữ, trong lời “ăn tiếng nói” của từng địa phương, và cả trong văn hóa vật chất.
Bao nhiêu năm qua, để có cuộc sống thích nghi với môi trường tự nhiên trên vùng đất mới, người Việt Nam bộ từ thế hệ này sang thế hệ khác không ngừng kế thừa, tích lũy, phát huy tri thức dân gian do đời trước truyền lại để làm giàu thêm cho kinh nghiệm sống. Qua đó, ta thấy, con người không hề thụ động trước áp lực của tự nhiên mà qua thời gian họ nắm bắt được các quy luật của nó và chủ động vận dụng vào cuộc sống.
Đọc quyển sách, bạn có thể nhận ra rằng không nơi nào trên đất nước Việt Nam, con người có cuộc sống gắn bó như máu thịt đối với sông nước như cư dân ĐBSCL, từ cách chọn nơi cư trú đến tổ chức nơi ăn chốn ở, lao động tìm cái sống, đến lời ăn tiếng nói, phong tục tập quán đề có sự chi phối, đều bàng bạc, ẩn hiện tính sông nước,…
Quyển sách “Mùa nước nổi trong đời sống văn hoá Đồng bằng sông Cửu Long” đang được phục vụ tại Thư viện thành phố Cần Thơ. Mời bạn tìm đọc quyển sách với các mã số:
▪ Ký hiệu phân loại: 390.095978 / M501N
▪ PHÒNG MƯỢN: MA.026468; MA.026469
▪ PHÒNG ĐỌC ĐỊA CHÍ: DC.002971; DC.002972